Chứng Nhân BT
Thánh Thể
I. Viết về đề
tài Bí Tích Thánh Thể, ḿnh xin được thú nhận với các bạn là
ḿnh không biết phải nói ǵ. Ḿnh
thấy ḿnh quá bé nhỏ trước một đề tài mà cả Giáo Hội, từ Đức
Giáo Hoàng cho đến giáo dân đều suy tư với biết bao bài giảng
thuyết để dạy dỗ dân Chúa trong năm Thánh Thể 2005. Từ bữa tiệc
ly ở Giêrusalem đến nay gần 2000 năm trôi qua mà Bí Tích Thánh
Thể vẫn là tâm điểm và được tiếp diễn cho đến tận thế như lời
hứa của Thầy Giêsu chí thánh: “Thầy ở cùng các con mọi ngày cho
đến tận thế” (Mt 28, 20 ).
II. Vậy ḿnh xin
mạn phép được làm chứng cùng quư bạn về Bí Tích Thánh Thể: Kho
tàng t́nh yêu đă nuôi sống anh chị em dân tộc ít người suốt 150
năm qua tại miền rừng núi Kontum này.
-- Từ khi hai em
bé thiếu niên người Sêđăng là Giuse Ngui và Gioan Pat được rửa
tội ngày 16/10/ 1853.
-- Ông Hmur
người Bana chủ làng Konkơxâm được rửa tội ngày 28/12/1853 ( Les
sauveges Bahnars. P. Dorisboure MEP ) Chắc chắn đây là những tín
hữu người Thượng được rước Ḿnh Thánh Chúa đầu tiên ở vùng đất
tây nguyên này.
Có lần trong
nhóm cầu nguyện của chúng tôi có một anh chưa theo đạo đă nhận
xét về cách giữ đạo của người thiểu số rằng: “Họ có hai cái ưu
việt : thứ nhất là họ dự Thánh Lễ thật nghiêm trang, rước Ḿnh
Thánh Chúa thật sốt sắng. Thứ hai là họ yêu mến Đức Mẹ thật hết
t́nh. Nh́n thấy họ mà tôi thêm đức tin, chính họ đă truyền giáo
cho tôi”. Nay th́ anh ấy đă được rửa tội và đang hoạt động trong
Lêgiô một cách đắc lực.
III. Năm 1986
tôi có dịp đưa một cha già đến một làng trên đỉnh núi cao: Núi
Kôn- sơ -nao. Từ thị xă muốn đến làng Konchan, KonHungleh th́
phải qua đỉnh núi này.
Từ tờ mờ sáng
chúng tôi đi từ thị xă Kontum đến khi mặt trời sắp lặn mà hai
cha con chúng tôi vẫn c̣n ở dưới chân núi. Ở chân núi này có một
làng thượng, đó là làng Konmah. Chú giáo phu( là thầy giảng,
giáo lư viên...) đă cho dẫn theo ba thanh niên trong làng Konmah
hộ tống cho chúng tôi. Con đường ṃn lên núi thật cheo leo kẻ
trước người sau, gót chân người này đi trước như muốn đụng đầu
người đi sau.
Miền núi hoàng hôn qua mau nhường lại cho bóng đêm dày đặc,
tiếng thú rừng văng vẳng xa xa...
Lúc c̣n ở nhà bàn bạc th́ tôi đưa cha già đi giải tội cho những
người già ở các làng và đem Ḿnh Thánh Chúa cho các làng trên
núi. Đây là công việc rất vất vả và phải làm chui. V́ đă một
tháng trôi qua mà chú giáo phu ( thừa tác viên ) bị đau không
thể về thị xă để rước Ḿnh Thánh Chúa cho dân làng được.
Mỗi làng ở đây đều được cất giữ Ḿnh Thánh Chúa, để mỗi tuần vào
sáng chúa nhật chú giáo phu giúp phục vụ lời Chúa và cho giáo
dân rước lễ.
Ḿnh Thánh Chúa
được đựng trong một cái hộp tṛn bằng nhôm và cái hộp này được
cất giữ trong một cái nhà tạm bằng cỡ chuồng chim Bồ Câu nhà.
Nhà tạm thường đặt ở giữa làng, dưới một cây to bóng mát chung
quanh gốc cây có để những ghế tự tạo bằng tre để dân làng đến
viếng Ḿnh Thánh Chúa hằng ngày.
Khi đến các làng thượng này ḿnh thấy được gần gũi Chúa hơn và
cũng được gần gũi với con người hơn. V́: “ Ngôi Lời đă trở nên
người phàm và cư ngụ giữa chúng ta” ( Ga1, 14)
Hằng ngày, dân làng chào Chúa trước khi đi rẫy; chiều về họ ghé
lại với Chúa một vài phút và ban đêm họ cùng họp nhau cầu nguyện,
ca hát...
Thật, nước trời
dành cho những tâm hồn bé mọn ngay ở đời này.
Đi khoảng hơn hai tiếng đồng hồ th́ chúng tôi đến đỉnh núi, nơi
đây có hai súc gỗ lớn nằm trên khoảng đất trống bằng một cái sân
bóng chuyền. Đây là nơi dừng lại nghỉ chân cho khách bộ hành và
chúng tôi dừng chân nghỉ. Nh́n qua bên kia sườn núi, có một đoàn
người cầm đuốc sáng và đang tiến về phía chúng tôi. Nghe tiếng
hú gọi, anh em phía chúng tôi hú trả lời chừng 15 phút sau họ
giáp mặt chúng tôi, th́ ra dân các làng đă đi đón chúng tôi từ
lúc 3 giờ chiều. Đường đến làng bằng phẳng hơn khi gần đến làng,
đoàn người đă trở thành một cuộc rước kiệu Ḿnh Thánh Chúa thật
long trọng. Đoàn người vừa đi vừa hát các bài hát về Thánh Thể.
Về đến làng cha đă đặt hộp đựng Ḿnh Thánh Chúa trên bệ cao để
dân làng chầu Thánh Thể.
Tôi không cầm được nước mắt khi nghe họ hát bài chầu “ Đây nhiệm
tích vô cùng cao quí” bằng cung điệu Latinh mà từ nhỏ ḿnh đă
quen thuộc: “ Tantum Ergo Sacramentum...” Gần như suốt đêm cha
già đă giải tội cho họ.
IV. Mỗi chuyến
ra đi đều đă cho tôi nhiều suy tư. Với chuyến đi này, tôi miên
man nghĩ đến sự hiệp thông trong Thánh Thể của những người cùng
khổ.
Anh em thiểu số
ở những nơi mà người ta gọi là “vùng sâu, vùng xa” : họ có cùng
chung một hoàn cảnh: dựa vào nương rẫy sống chết với rừng núi.
Thánh Thể đă nuôi sống họ, kết hiệp họ thành chi thể của Hội
Thánh như Thánh Phao-Lô đă nói: “ Bởi v́ chỉ có một tấm bánh,và
tất cả chúng ta chia sẻ cùng một tấm bánh ấy, nên tuy nhiều
người chúng ta cũng chỉ là một thân thể” (1Cr 10,17 ).
Họ sống rất hạnh
phúc, nhà của họ không bao giờ có khóa họ không bao giờ bị mất
trộm. Bao giờ có dịp mời bạn tham dự Thánh Lễ với họ, bạn sẽ
thấy: tất cả mọi người đều hát, hát lớn tiếng, hát rất hay kể cả
hát bè. Hát để ca ngợi Chúa. Tiếng hát của những con người hạnh
phúc.
Bây giờ th́ tôi
xin lập lại câu nói của bạn tôi. Câu này giờ th́ dành riêng cho
tôi “Anh em dân tộc thiểu số nghèo khổ là Thầy dạy tôi giữ đạo”
Deo gratias
JB Kim Thông |